Cấu trúc Tên người Nhật

Trong thời phong kiến ở Nhật, thường chỉ có các danh gia vọng tộc được có nhiều hơn một tên. Đa số người Nhật có một họ và một tên riêng mà không có tên lót, ngoại trừ gia tộc hoàng gia Nhật Bản, các thành viên gia tộc đều không có họ. Họ - myōji (苗字 hoặc 名字), uji (氏) hoặc sei (姓)[cần dẫn nguồn] - được đặt ở trước tên riêng, được gọi là "tên" - (名 mei) hoặc "tên thấp hơn/tên phụ" (lower name) (下の名前 shita no namae). Tên riêng có thể được đề cập đến như là "tên thấp hơn", vì trong văn bản theo chiều dọc của Nhật Bản, tên riêng được xuất hiện bên dưới họ.[7] Những người có huyết thống hỗn hợp giữa Nhật Bản và nước ngoài có thể có tên lót.[8]

Trong lịch sử, myōji, uji và sei mang những ý nghĩa khác nhau. Sei ban đầu mang nghĩa là "họ nội", đây là lý do tại sao cho đến hiện tại, nó chỉ được cấp bởi Nhật hoàng, như một danh hiệu cấp bậc cho nam giới. Cấp bậc thấp hơn của 'Sei' là 'Tei', đó là một tên phổ biến của đàn ông Nhật Bản. Mặc dù vậy, họ cũng là gia tộc tổ tiên trong lịch sử Nhật mà cái tên 'Sei' bắt nguồn từ đó. Có rất ít các sei, và hầu hết những gia tộc cao quý thời trung cổ có gia tộc của mình bắt nguồn trực tiếp đến các sei, hoặc các cận thần của các sei này. Uji là một cái tên khác được dùng để chỉ gia tộc theo phụ hệ, nhưng sau này được gộp cùng myōji trong cùng khoảng thời gian. Myōji, mang một ý nghĩa đơn giản, là từ mà một gia tộc chọn để tự gọi chính họ, đối lập với sei được ban bởi nhà vua. Trong khi myōji được tiếp tục đặt theo chế độ phụ hệ trong tổ tiên của người nam đó, bao gồm trong tổ tiên các haku (chú bác) của người nam, một người nào đó có thể được tự do hơn trong việc thay đổi myōji của bản thân người đó. Xem thêm Kabane.

Nhiều ký tự tiếng Nhật có cùng cách phát âm, vì vậy một số tên tiếng Nhật có nhiều nghĩa. Bản thân một mẫu tự kanji đặc biệt có thể có nhiều ý nghĩa và cách phát âm khác nhau. Trong một số tên gọi, các ký tự tiếng Nhật - qua việc đọc nó lên - tự "viết ra" một cái tên và không có ý nghĩa ẩn dụ gì đằng sau. Nhiều tên cá nhân Nhật Bản sử dụng lối chơi chữ.[9]

Rất ít tên có thể dùng cho cả họ và tên riêng (ví dụ như Mayumi 真弓, Kaneko 金子, Masuko 益子, hoặc Arata 新). Vì vậy, đối với những người quen thuộc với tên gọi trong tiếng Nhật, vấn đề về tên nào là họ và tên nào là tên riêng thường được phân định rõ ràng, bất kể tên gọi được sử dụng như thế nào. Điều này, do đó, khiến việc hai cái tên sẽ bị nhầm lẫn trở nên khó xảy ra hơn, ví dụ như khi viết (hoặc nói) tiếng Anh trong khi sử dụng thứ tự họ - tên riêng. Tuy nhiên, do sự đa dạng của âm và sự khác biệt về ngôn ngữ, một số họ phổ biến và tên nhất định có thể bị trùng hợp khi Latin hoá: ví dụ, Shoji (昌司, 昭次, hoặc 正二, Shoji?) (tên riêng) và Shoji (庄司, 庄子, 東海林, hoặc 小路, Shoji?) (họ).

Tên tiếng Nhật có sự khác biệt rõ rệt so với tên người Trung Quốc thông qua việc lựa chọn các mẫu tự trong một tên và cách phát âm. Một người Nhật Bản có thể phân biệt được một cái tên Nhật Bản so với một tên Trung Quốc bằng cách nhìn vào nó. Tomozawa Akie, tác giả cuốn sách "Japan's Hidden Bilinguals: The Languages of 'War Orphans' and Their Families After Repatriation From China," nói rằng điều này tương đương với cách mà "người châu Âu có thể nói một cách dễ dàng tên gọi 'Smith' là từ tiếng Anh và 'Schmidt' từ tiếng Đức hoặc 'Victor' từ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp và 'Vittorio' là từ tiếng Ý".[10]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tên người Nhật http://www.csse.monash.edu.au/~jwb/cgi-bin/wwwjdic... http://www.babynames.ch/Info/Language/laJapanese http://japanese.about.com/library/weekly/aa050601a... http://www.japanese-name-translation.com/site/japa... http://www.japanese-name-translation.com/site/top5... http://www.japanorama.com/namesinj.html http://potboilerpress.com/ http://potboilerpress.com/index.php?main_page=prod... http://park14.wakwak.com/~myj/ http://hsblogs.stanford.edu/morrison/